Qua tổng hợp cho thấy đại bộ phận các bộ, ngành các đại biểu tham gia hội thảo đều thống nhất với sự cần thiết và nội dung dự thảo luật. Tuy nhiên, việc xem xét Báo cáo kiểm toán có giá trị pháp lý hay không và Báo cáo kiểm toán có thể thay thế được kết luận kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của các cơ quan thanh tra, cơ quan thuế, cơ quan kiểm toán nhà nước hay không còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Có cần quy định rõ ràng về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán ?
Trước hết, cần hiểu rõ thế nào là giá trị pháp lý của Báo cáo kiểm toán. Tôi cho rằng giá trị pháp lý là giá trị bắt buộc phải thực hiện, tức là đơn vị được kiểm toán bắt buộc phải tuân thủ và thực hiện các kết luận ghi trong báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên hành nghề (sau đây gọi tắt là kiểm toán viên). Điều đó là không đúng vì kiểm toán độc lập chỉ là dịch vụ tư vấn. Người được tư vấn không có trách nhiệm bắt buộc phải thực hiện ý kiến của người tư vấn. Để làm rõ giá trị của Báo cáo kiểm toán, trước hết chúng ta cần xem xét trách nhiệm đối với Báo cáo tài chính (báo cáo tài chính), trách nhiệm đối với Báo cáo kiểm toán và nội dung, các loại ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính theo thông lệ quốc tế và theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, trách nhiệm đối với báo cáo tài chính và trách nhiệm đối với Báo cáo kiểm toán:
– Theo chuẩn mực kế toán quốc tế và theo quy định của Luật Kế toán VN thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, tổ chức (đơn vị được kiểm toán) chịu trách nhiệm lập và trình bày trung thực và hợp lý báo cáo tài chính theo đúng tình hình tài sản và kết quả kinh doanh của đơn vị và đúng chuẩn mực, chế độ kế toán hiện hành. Trách nhiệm của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán (doanh nghiệp kiểm toán) là kiểm tra và xác nhận về sự trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính chứ không phải chịu trách nhiệm pháp lý về báo cáo tài chính. Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực, chế độ kế toán hiện hành, có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không ? Ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trong Báo cáo kiểm toán chỉ làm tăng sự tin cậy của các báo cáo tài chính chứ không làm giảm nhẹ trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của đơn vị được kiểm toán đối với báo cáo tài chính đã kiểm toán. Người sử dụng báo cáo tài chính không thể cho rằng ý kiến của kiểm toán viên là sự đảm bảo về khả năng tồn tại của đơn vị được kiểm toán trong tương lai cũng như hiệu quả và hiệu lực điều hành của bộ máy quản lý.
Quan hệ kiểm toán độc lập dựa trên hợp đồng dịch vụ mà doanh nghiệp kiểm toán đã ký với khách hàng. kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ kiểm toán theo các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập bao gồm: Tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán VN và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán; độc lập, trung thực, khách quan; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp.
Thứ hai, nội dung và các loại ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán số 700- Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
(1) Các loại ý kiến của kiểm toán viên độc lập: Khác với ý kiến kết luận của các cơ quan kiểm toán nhà nước, hoặc cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, căn cứ kết quả kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra một trong 4 loại ý kiến về báo cáo tài chính như sau:
(a) Ý kiến chấp nhận toàn phần
(b) Ý kiến chấp nhận từng phần
(c) Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến)
(d) Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược)
Ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trong Báo cáo kiểm toán chỉ làm tăng sự tin cậy của các báo cáo tài chính và chỉ là ý kiến tư vấn mà không là kết luận của các cơ quan thanh tra, cơ quan thuế, cơ quan kiểm toán nhà nước nên không bắt buộc đơn vị được kiểm toán phải tuân thủ. Báo cáo kiểm toán không thể thay thế được kết luận kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và công việc của kiểm toán viên không thể thay thế công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này được giải thích rõ hơn vì ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính không phải là sự đảm bảo tuyệt đối mà chỉ là sự đảm bảo rằng báo cáo tài chính nếu có sai sót trọng yếu thì đã được kiểm toán viên phát hiện và trình bày trong Báo cáo kiểm toán. Đảm bảo hợp lý là khái niệm liên quan đến việc thu thập bằng chứng kiểm toán cần thiết giúp kiểm toán viên kết luận rằng báo cáo tài chính không còn sai sót trọng yếu. Ý kiến của kiểm toán viên chỉ là sự đảm bảo hợp lý vì: (i) Khả năng phát hiện ra sai sót trọng yếu của kiểm toán viên bị giới hạn do những hạn chế tiềm tàng như: Sử dụng phương pháp kiểm toán chọn mẫu, những hạn chế tiềm tàng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ (như khả năng xảy ra thông đồng, giả mạo chứng từ ngay trong đơn vị được kiểm toán) và phần lớn các bằng chứng kiểm toán thường có tính xét đoán và thuyết phục nhiều hơn sự đảm bảo chắc chắn; (ii) Để đưa ra ý kiến kiểm toán, kiểm toán viên chủ yếu phải dựa vào sự đánh giá, xét đoán riêng của mình, dựa trên các bằng chứng kiểm toán thu thập được.
Cần giải thích rõ về giá trị của báo cáo kiểm toán
Có nhiều ý kiến đề nghị giải thích rõ nếu báo cáo kiểm toán không có giá trị pháp lý thì có giá trị gì và có giá trị như thế nào để khẳng định vai trò quan trọng của ngành nghề này và Nhà nước mới phải ban hành Luật Kiểm toán độc lập để chi phối, điều chỉnh và quản lý hoạt động kiểm toán độc lập ? Đồng thời có ý kiến đề nghị làm rõ trách nhiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán để góp phần tăng cường giá trị kiểm toán.
Thứ nhất, về Báo cáo kiểm toán có giá trị thực tế cao hơn là có giá trị pháp lý: Kiểm toán là loại hình dịch vụ nên mục đích của nó là phải gia tăng giá trị cho người mua dịch vụ. Kiểm toán độc lập là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường của tất cả các quốc gia với vai trò quan trọng trong việc đảm bảo độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính. Công việc của kiểm toán viên sẽ cung cấp một cơ sở vững chắc cho các bên có liên quan để đi đến các kết luận và đưa ra các quyết định hợp lý, đúng đắn của chính họ về khả năng tồn tại và triển vọng tương lai của doanh nghiệp. Sản phẩm của kiểm toán độc lập là những thông tin kinh tế tài chính đã được các kiểm toán viên có đủ năng lực và độc lập xác nhận về mức độ phù hợp với các chuẩn mực đã được thiết lập. Vì vậy, nó là căn cứ quan trọng cho cơ quan quản lý nhà nước đưa ra quyết định quản lý và các bên thứ ba như cổ đông, nhà đầu tư, ngân hàng… đưa ra các quyết định kinh tế.
Sự biến động kinh tế gần đây đã gây nhiều chú ý hơn về trách nhiệm của kiểm toán viên cũng như doanh nghiệp kiểm toán và giá trị của kiểm toán đã thay đổi vì rủi ro thất bại của doanh nghiệp cao hơn và ảnh hưởng của các phán quyết được đưa ra dựa trên toàn bộ các thông tin về doanh nghiệp trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để thỏa mãn nhu cầu của nhiều đối tượng sử dụng hơn, không chỉ dừng lại các nhà đầu tư như khách hàng, nhân viên, nhà cung cấp, cơ quan nhà nước… phạm vi và giá trị kiểm toán cần vượt lên trên sự trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính để đánh giá về quản lý rủi ro, quản trị doanh nghiệp và mô hình kinh doanh tổng thể, đặc biệt là khả năng tồn tại của doanh nghiệp trong các điều kiện khác nhau.
Thứ hai, về trách nhiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán: Kiểm toán độc lập là một loại hình dịch vụ đặc biệt đòi hỏi các chủ thể kiểm toán phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định về nghề nghiệp. kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán chịu trách nhiệm kiểm tra và đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài chính. doanh nghiệp kiểm toán chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi trách nhiệm của mình với người sử dụng kết quả kiểm toán (về các thiệt hại xảy ra là do lỗi của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán do đưa ra ý kiến kiểm toán sai). Theo thông lệ của hầu hết các nước và theo quy định của pháp luật hiện hành về kiểm toán độc lập thì doanh nghiệp kiểm toán chỉ chịu trách nhiệm với người sử dụng kết quả kiểm toán khi người sử dụng kết quả kiểm toán chứng minh được rằng họ: (i) Có lợi ích liên quan trực tiếp tới kết quả kiểm toán của đơn vị được kiểm toán tại ngày ký báo cáo kiểm toán; (ii) Có hiểu biết một cách hợp lý về báo cáo tài chính và cơ sở lập báo cáo tài chính; (iii) Đã sử dụng một cách thận trọng thông tin trên báo cáo tài chính đã kiểm toán.
Để làm rõ các vấn đề như đã nêu trên, Luật Kiểm toán độc lập cần quy định các nội dung liên quan đến mục đích, giá trị của báo cáo kiểm toán để thể hiện rõ giá trị và lợi ích của hoạt động kiểm toán độc lập. Đồng thời cần bổ sung thêm quy định các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền và cá nhân khác khi sử dụng báo cáo kiểm toán phải chịu trách nhiệm về quyết định sử dụng báo cáo kiểm toán của mình. Quy định này nhằm xác định rõ ràng trách nhiệm đối với việc sử dụng kết quả kiểm toán. Cụ thể, hoạt động kiểm toán độc lập góp phần công khai, minh bạch thông tin kinh tế tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức; lành mạnh hóa môi trường đầu tư; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí; phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả công tác quản lý và điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức.
Bên cạnh đó là giá trị của báo cáo kiểm toán. Kế thừa quy định của Nghị định 105/2004/NĐ-CP và phù hợp với thông lệ quốc tế, dự thảo Luật cần quy định: Báo cáo kiểm toán xác nhận tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với quy định hiện hành về lập và trình bày báo cáo tài chính; đánh giá việc tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng tiền và tài sản của đơn vị được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán là một trong những tài liệu để: (a) Các cổ đông, các nhà đầu tư có quyền lợi trực tiếp với đơn vị được kiểm toán, các bên tham gia liên doanh, liên kết, các khách hàng và tổ chức, cá nhân khác xử lý các mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan; (b) Cơ quan nhà nước và đơn vị cấp trên sử dụng cho quản lý, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ được giao; (c) Giúp đơn vị được kiểm toán phát hiện, xử lý và ngăn ngừa kịp thời các sai sót, yếu kém trong hoạt động của đơn vị.
Trong bối cảnh các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới bị phá sản đã gây nên sự thiệt hại kinh tế nghiêm trọng đối với thị trường tài chính và nền kinh tế nói chung, những sự kiện gây xôn xao dư luận về các tập đoàn kinh tế lớn phá sản trong khi báo cáo tài chính công khai có nhiều sai sót trọng yếu nhưng vẫn được kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán xác nhận là trung thực và hợp lý càng khẳng định thêm về tình trạng khẩn cấp và yêu cầu phải tăng cường hơn nữa các quy định bổ sung cần thiết để tăng cường chất lượng dịch vụ kiểm toán và từ đó góp phần nâng cao giá trị của báo cáo kiểm toán. Do hoạt động kiểm toán có phạm vi ảnh hưởng rất rộng, không chỉ cơ quan quản lý nhà nước sử dụng báo cáo kiểm toán mà còn cả các tổ chức, doanh nghiệp và công chúng đầu tư. Việc ban hành khuôn khổ pháp lý cao, chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho công tác giám sát chất lượng, phòng ngừa những thiệt hại cho nền kinh tế cũng như cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đồng thời đây cũng là giải pháp quan trọng góp phần tăng cường công cụ quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Theo Báo DĐDN
Đánh giá bài viết
[Tổng số: 0 Trung bình: 0]
Bài viết này hữu ích chứ?
CóKhông