chuyển biến, các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô
tiếp tục phát huy hiệu quả. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng trong những
tháng đầu năm có xu hướng giảm. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP quý I/2012
đạt 4%, là mức thấp nhất kể từ năm 2004 (ngoại trừ quí I/2009), trong đó
ngành công nghiệp chế biến chỉ tăng 3,04%, xây dựng giảm 3,85%, ngành
dịch vụ cũng tăng trưởng chậm lại. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 4
tháng đầu năm 2012 tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2011, là mức tăng thấp.
Đáng lưu ý, kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh ở các mặt hàng như: linh kiện
phụ tùng ôtô; xăng dầu; linh kiện xe máy; nguyên phụ liệu cho sản xuất,
xuất khẩu (vải, bông, sợi dệt…).
Những khó khăn của tình hình kinh tế vĩ
mô đang ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
cụ thể:
Thứ nhất, quý I/2012, doanh nghiệp
thành lập mới giảm 10,2% so với cùng kỳ 2011. Số doanh nghiệp tạm nghỉ
kinh doanh có thời hạn là gần 18.700 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp giải
thể, phá sản và ngừng hoạt động là khoảng 10.350 doanh nghiệp, tăng
14,8% so với cùng kỳ.
Một số ngành có số doanh nghiệp thành lập
mới giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2011, như công nghiệp khai khoáng, kinh
doanh bất động sản, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng; Một số
ngành có số doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh có thời hạn và ngừng hoạt
động tăng cao như kinh doanh bất động sản và xây dựng.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định phương án sử dụng số tăng thu của năm 2011, trong đó:
– Dành khoảng 2.100 tỷ đồng bổ sung vốn đầu tư để hiện một số công trình cấp bách; – Dành 750 tỷ đồng làm nhà cho người có công; – Bố trí 460 tỷ đồng để làm vốn đối ứng cho các dự án ODA – Bổ sung 100 tỷ đồng để Hội liên hiệp phụ nữ thực hiện cho phụ nữ nghèo vay vốn sản xuất |
Thứ hai,
doanh thu bán hàng hoá dịch vụ trong quý I/2012 giảm 7% so với cùng kỳ
năm 2011, trong đó khu vực DNNN giảm 14%, doanh nghiệp ngoài Nhà nước
giảm 21%, riêng khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng 24%. Hầu hết các
ngành kinh tế đều có doanh thu giảm so với cùng kỳ (15/21 ngành chính),
như xây dựng giảm 26%; thương mại, bán buôn, bán lẻ giảm 22%; sản xuất
giảm 9%; dịch vụ khách sạn, ăn uống giảm 8%…
Thứ ba, theo số liệu
của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ
số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm 2011 của nhiều ngành giảm,
như bất động sản (7,46%), xây dựng (12%), thép (14,46%)… Chi phí lãi
vay tăng; Khả năng thanh toán lãi vay của đa số các ngành đều giảm so
với năm 2010.
Thứ tư, tổng thu nội địa quý I/2012 đạt thấp
(140.813 tỷ đồng), chỉ bằng 96,9% so với cùng kỳ 2011, đây là năm đầu
tiên thu nội địa giảm so cùng kỳ trong các năm gần đây (quý I/2011 tăng
40,9%, quý I/2010 tăng 37,6% so với cùng kỳ).
Số thu thuế giá trị
gia tăng trong quý I/2012 (đạt 33.096 tỷ đồng), tăng 6% so với cùng kỳ
2011, là mức thấp nhất trong các năm gần đây (quý I/2011 tăng 26,2%; quý
I/2010 tăng 35,6%).
Trong quý I/2012, số thu thuế TNDN đạt thấp so với cùng kỳ (bằng 94,28%) và thấp hơn nhiều so với các năm 2009, 2010, trong đó khu vực DNNN bằng 89,64% và doanh nghiệp ngoài Nhà nước bằng 92,19%, riêng khu vực có vốn ĐTNN tăng nhẹ (6,8%). 9/14 ngành có thuế TNDN đã nộp NSNN giảm mạnh so với cùng kỳ. Số thu hải quan quý I/2012 đạt 46.653 tỷ đồng, tương đương hơn 15 nghìn tỷ đồng/tháng, giảm 2,2% so với cùng kỳ 2011).
Thứ năm, về nợ thuế, đến cuối năm 2011 số nợ thuế phải thu chiếm tỷ trọng 6,95% so với số thuế đã nộp vào NSNN, tăng 1,76% so với năm 2010. Tính đến hết tháng 2/2012, số thuế nợ tăng 28,5% so với 31/12/2011, trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng 25,7%, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 13,9%, khu vực DNNN tăng 4,3%. Một số ngành có số nợ thuế GTGT tăng cao so với cùng kỳ 2011 như bất động sản, vận tải, sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nông- lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp khai khoáng, dịch vụ ăn uống khách sạn.
Tính đến giữa tháng 3, tổng số doanh nghiệp nợ thuế hải quan quá hạn là 8.465 doanh nghiệp (tăng 6,04% so với thời điểm 31/12/2011). Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước chiếm 78,9%, khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN và khu vực DNNN chiếm tương ứng 10,6% và 10,5%. Nợ thuế hải quan quá hạn tập trung ở nhóm hàng hoá thành phẩm (riêng thuế xuất khẩu, nợ quá hạn chủ yếu từ nhóm hàng hoá nguyên vật liệu, sản phẩm thô).
Nhìn chung, trong năm 2011 và đầu năm 2012, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Nhờ đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của một số ngành đã được cải thiện như: ngành đóng và sửa chữa tàu, chế biến và bảo quản rau quả, sản xuất sản phẩm bơ, sữa và các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, tình hình hoạt động của doanh nghiệp 4 tháng đầu năm nhìn chung vẫn khó khăn, hàng tồn kho và chi phí tài chính tăng cao. Thậm chí cả doanh nghiệp ở những địa bàn lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương…
Trước tình hình diễn biến kinh tế vĩ mô 4 tháng đầu năm 2012 còn nhiều khó khăn, thách thức và các doanh nghiệp cũng đang gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển sản xuất kinh doanh, nên song song với các giải pháp về tiền tệ, tín dụng thì cần phải có những giải pháp tài chính để kịp thời tháo gỡ, duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh, chống suy giảm kinh tế, gắn với thực hiện tốt mục tiêu đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát ở mức 9%, phấn đấu đảm bảo tăng trưởng 6%.
Các giải pháp tài chính nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp phải đảm bảo được các nguyên tắc:
– Theo nguyên tắc thị trường, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, không làm lạm phát tăng trở lại; tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường cả trong nước và quốc tế.
– Hỗ trợ đúng đối tượng; đúng địa chỉ, đúng mục tiêu và kịp thời theo mức độ khó khăn của doanh nghiệp; tuân thủ quy định của pháp luật và cam kết quốc tế.
– Đảm bảo khả năng cân đối ngân sách; ưu tiên lựa chọn những giải pháp có hiệu quả, có tác động lớn đến hỗ trợ vốn và thanh khoản cho doanh nghiệp nhưng không tác động nhiều đến cân đối ngân sách.
– Phối hợp tốt với việc điều hành chính sách tiền tệ, từng bước hạ lãi suất cho vay và nâng cao khả năng hấp thụ vốn tín dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.
– Thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp và cơ cấu lại sản xuất kinh doanh, cũng như quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, sắp xếp lại ngành hàng phù hợp với lợi thế cạnh tranh và phù hợp với quy hoạch phát triển ngành.
Các nhóm giải pháp cụ thể:
Nhóm giải pháp điều hành vĩ mô
(1) Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, tuỳ theo tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng và chỉ số giá tiêu dùng để hạ nhanh lãi suất huy động và lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
(2) Cơ cấu lại tín dụng, ưu tiên vốn tín dụng phục vụ các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, DNNVV, sử dụng nhiều lao động…, một số phân khúc trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản (nhà để ở, phát triển nhà ở trong khu đô thị…).
(3) Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng và thị trường chứng khoán thông qua phát triển thị trường chứng khoán và tiết kiệm giảm 5% – 10% chi phí quản lý ở 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước và Ngân hàng thương mại cổ phần mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay.
(4)Thực hiện các biện pháp thích hợp để tiết kiệm chi, tăng thu NSNN, đảm bảo thực hiện thắng lợi dự toán NSNN năm 2012 đã được Quốc hội thông qua. Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
Nhóm giải pháp về chi tiêu công
(1) Các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn TPCP, vốn và kinh phí các Chương trình mục tiêu quốc gia đến từng dự án; tìm nguồn vốn bổ sung vốn đối ứng cho các dự án ODA; triển khai các giải pháp đẩy nhanh đầu tư xây dựng cơ bản; đôn đốc để đảm bảo đủ điều kiện triển khai thực hiện các dự án.
(2) Bổ sung thêm 1.000 tỷ đồng (nâng tổng mức năm 2012 lên 4.000 tỷ đồng) cho vay đầu tư kiên cố hoá kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và làng nghề ở nông thôn (tổng mức cả năm 2012 là 4.000 tỷ đồng).
(3) Thực hiện quản lý, cấp phát thanh toán vốn đầu tư, vốn trái phiếu Chính phủ, chương trình mục tiêu quốc gia theo đúng quy định và kịp thời cho các dự án phù hợp với kế hoạch và tiến độ thực hiện; tạm ứng vốn theo đúng quy định.
(4) Cho phép sử dụng khoản kinh phí mua sắm trong dự toán năm 2011 đã chuyển nguồn sang năm 2012 để thực hiện mua sắm theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
(5) Rà soát việc sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cho các hoạt động xúc tiến thương mại được giao năm 2012 và báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án hỗ trợ tiếp trong năm 2012, trong đó tập trung để mở rộng thị trường có tiềm năng.
(6) Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đã ban hành, tăng cường kiểm tra, giám sát, đảm bảo đúng chính sách chế độ, đúng đối tượng và kịp thời.
Nhóm giải pháp về thuế và phí
(1)Gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT trong 06 tháng đối với số thuế GTGT phải nộp của tháng 4, tháng 5 và tháng 6 năm 2012 của các doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 08/2011/QH13 và đang thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
(2) Giảm 50% tiền thuê đất phải nộp của năm 2012 theo cơ chế quy định tại Quyết định số 2093/QĐ-TTg ngày 23/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ đang được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm mà năm 2012 phải xác định đơn giá thuê đất theo quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP ngày 03/12/2010.
(3) Gia hạn số tiền thuế TNDN còn nợ chưa nộp NSNN của năm 2011 trở về trước trong 09 tháng của các doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 08/2011/QH13 và doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất, vận tải đường thuỷ (bao gồm cả vận tải thuỷ nội địa và vận tải biển), sản xuất thép, xi măng.
(4) Miễn thuế môn bài năm 2012 đối với các hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối.
(5) Gia hạn thời hạn nộp tiền sử dụng đất trong thời gian tối đa 12 tháng kể từ ngày phải nộp theo thông báo của cơ quan thuế đối với số tiền sử dụng đất đến hạn phải nộp của các chủ đầu tư dự án do có khó khăn về tài chính nên chưa nộp tiền sử dụng đất. Căn cứ tình hình thực tế của doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng đến thu ngân sách địa phương sau khi có ý kiến của Thường trực HĐND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định thời gian gia hạn cụ thể cho từng dự án hoặc nhóm dự án.
(6) Lùi thời hạn thu phí bảo trì đường bộ đối với ô tô và xe máy đến hết 31/12/2012 nhằm giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp (giảm chi phí đầu vào) và người dân.
(7) Giảm 30% thuế TNDN phải nộp năm 2012 của các doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 08/2011/QH13.
(8) Miễn thuế khoán thuế GTGT, thuế TNCN và thuế TNDN trong năm 2012 đối với cá nhân, hộ kinh doanh nhà trọ, phòng trọ cho thuê đối với công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh; hộ, cá nhân chăm sóc trông giữ trẻ; hộ, cá nhân, tổ chức cung ứng suất ăn ca cho công nhân với điều kiện hộ, cá nhân, tổ chức này giữ ổn định mức giá cho thuê phòng trọ, nhà trọ, giá trông giữ trẻ và giá cung ứng suất ăn ca như cuối năm 2011.
Nhóm giải pháp điều hành giá và trợ cấp
(1) Tăng cường hiệu quả công tác quản lý, điều hành giá, nhằm đảm bảo giá cả hàng hoá, đặc biệt là giá nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, phản ánh đúng giá trị thị trường, hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ hàng hoá nhằm thao túng thị trường giá cả…
(2) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát kết hợp với thuế để ngăn chặn và kiên quyết xử lý các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với nguyên vật liệu quan trọng.
(3) Rà soát và thực hiện trợ giá xăng dầu, điện đầu vào cho một số lĩnh vực sản xuất/đối tượng (ngư dân đánh bắt xa bờ, sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo) nếu những mặt hàng này tiếp tục có biến động lớn về giá.
Nhóm cải cách thủ tục hành chính thuế
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế và hải quan nhằm giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế cho doanh nghiệp. Cụ thể: (1) Rút ngắn thời gian thông quan; (2) Tăng cường công tác khai thuế điện tử qua mạng; (3) Tiếp tục triển khai nộp thuế qua hệ thống ngân hàng; (4) Đẩy mạnh tự động hóa quy trình tiếp nhận giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính thuế và hải quan thông qua các chương trình hiện đại hóa và thuế điện tử; (5) Phấn đấu giảm 10-15% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế, hải quan cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp.
Đề án tái cơ cấu DNNN:
– Là tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 3 khoá 9, và Đề án này đã làm rõ và đánh giá được hiệu quả kinh tế khu vực nhà nước và vai trò thực hiện nhiệm vụ chiín trị xã hội, để tạo nhận thức chung trong xã hội; qua đó tiếp tục khẳng định vai trò và sự cần thiết của DNNN gắn với định hướng XHCN – Vai trò của DNNN phải đảm bảo là công cụ cần thiết để điều hành KTVM bình ổn thị trường (lương thực, xăng dầu); đồng thời tạo động lực phát triển đất nước vì một số lĩnh vực Nhà nước vẫn phải làm mà không đợi khu vực tư nhân làm do chi phí đầu tư cao (đường cao tốc, điện…), đảm bảo an sinh xã hội, an ninh quốc phòng Phương hướng đổi mới: – Làm rõ hoạt động kinh doanh phải hiệu quả, và cần hiệu quả hơn (vì có nguồn lực được giao – Sản phẩm công ích đáp ứng nhu cầu người dân, chất lượng cao – DNNN tiếp tục đẩy mạnh đổi mới công tác quản trị, công khai minh bạch; đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá; lộ trình thoái vốn trong quá trình sắp xếp DNNN – Quản lý nhà nước: làm rõ vai trò giám sát chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước, tạo chủ động cho DNNN hoạt động. Cơ quan quản lý nhà nước giám sát DNNN thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, chấp hành pháp luật, quản lý sử dụng vốn tài sản nhà nước tại doanh nghiệp; cán bộ viên chức. – Nhiệm vụ cấp bách phải ban hành cơ chế để thực hiện; giám sát tổ chức thực hiện. |
Theo mof.vn